Bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là gì?

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Khoa học xã hội Việt Nam, bảo hộ là sự chở che, không để bị hư hỏng, tổn thất. Quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa cũng cần được “che chở”, bảo vệ, tránh bị “tổn thất” bởi các hành vi xâm phạm. Trong khoa học pháp lý Việt Nam đã có một số quan điểm khác nhau về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa. Qua tham khảo các quan điểm đó và trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi xin đưa ra cách hiểu chung nhất về khái niệm bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa như sau:

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa là sự bảo đảm của Nhà nước bằng hệ thống pháp luật và hoạt động của các cơ quan chức năng trong việc xác lập quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu hàng hóa cho các chủ thể và bảo vệ quyền đó chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba.

Như vậy, bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa được thể hiện qua hệ thống pháp luật và việc thực thi hệ thống pháp luật đó.

Hệ thống pháp luật về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa

Như trong bài viết định nghĩa về nhãn hiệu các bạn cũng biết rằng nhãn hiệu là một loại tài sản trí tuệ, nhưng ngoài đặc điểm chung như các loại tài sản trí tuệ khác, nó còn có những đặc tính đặc thù như:

  • Quyền chiếm hữu tài sản nhãn hiệu hàng hóa không có nhiều ý nghĩa thực tiễn; trong khi đó quyền sử dụng và quyền định đoạt nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hoạt động thương mại;
  • Nhãn hiệu hàng hóa không tồn tại dưới hình thức độc lập với hàng hóa hay dịch vụ thương mại. Cơ sở cho nó tồn tại là chức năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác nhau. Tuy nhiên, giá trị của nhãn hiệu hàng hóa lại độc lập với giá trị của hàng hóa/dịch vụ mang nhãn hiệu và nhiều khi có ý nghĩa quyết định giá bán của hàng hóa/dịch vụ đó trên thị trường. Cũng chính vì vậy mà nhãn hiệu hàng hóa chỉ tồn tại khi gắn với hoạt động kinh tế, thương mại;
  • Chính vì quyền chiếm hữu tài sản nhãn hiệu hàng hóa là không có nhiều ý nghĩa và được xác lập bằng sự tôn trọng của các chủ thể khác trên cơ sở các chuẩn mực pháp luật và cộng đồng cho nên trong hoạt động thương mại các hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa diễn ra rất phổ biến. Với việc xâm phạm này, người vi phạm thu được nguồn lợi lớn nhưng lại tốn kém ít chi phí, điều đó đồng nghĩa với thiệt hại của chủ nhãn hiệu. Trong khi việc phát hiện và xử lý vi phạm rất khó khăn, tốn kém.

Chính bởi tính chất đặc thù của nhãn hiệu hàng hóa nên pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cũng có những đặc trưng nhất định, có thể được hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật có mục đích bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu của chủ nhãn hiệu khỏi những hành vi xâm phạm của các chủ thể kinh doanh khác, đồng thời tạo cơ sở pháp lý cho chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa khai thác nhãn hiệu một cách hiệu quả và phù hợp với lợi ích cộng đồng.

Hệ thống pháp luật bao gồm pháp luật quốc giapháp luật quốc tế.

  • Pháp luật quốc gia bao gồm pháp luật dân sự, pháp luật kinh tế – thương mại, pháp luật hành chính và pháp luật hình sự với những cách thức bảo hộ đặc thù của mỗi ngành luật.
  • Pháp luật quốc tế trên cơ sở các quốc gia ký kết các điều ước quốc tế hoặc chấp nhận nguyên tắc có đi có lại với các quốc gia khác về vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Các quốc gia có nghĩa vụ thực hiện các cam kết của mình theo các điều ước quốc tế đã ký.

Vấn đề thực thi pháp luật

Việc ban hành các văn bản pháp luật có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo hộ các quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể kinh doanh cũng như người tiêu dùng và cả nền kinh tế. Tuy nhiên, chỉ ban hành pháp luật là chưa đủ. Bởi vì, như đã phân tích ở trên, nhãn hiệu hàng hóa có đặc tính là rất dễ bị xâm phạm. Do đó, một vấn đề mà tất cả các quốc gia đều hết sức quan tâm là vấn đề thực thi pháp luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa. Điều này thể hiện rất rõ trong các hệ thống pháp luật của các nước cũng như trong các điều ước quốc tế liên quan, đặc biệt là Hiệp định TRIPS.

Thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa được hiểu là một hệ các vấn đề liên quan đến các cơ quan có thẩm quyền thực thi và mối quan hệ giữa các cơ quan đó, hệ thống văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho công tác thực thi, các biện pháp và cách thức mà các cơ quan này tiến hành.

Hệ thống các cơ quan có thẩm quyền thực thi pháp luật bao gồm nhiều loại cơ quan khác nhau:

  1. Cơ quan đăng ký (thường là cơ quan hành chính thuộc chính phủ);
  2. Cơ quan xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, khiếu kiện và tranh chấp (bao gồm toà án, trọng tài thương mại và cơ quan hành chính);
  3. Cơ quan kiểm soát biên giới (hải quan);
  4. Cơ quan giải quyết vấn đề sở hữu trí tuệ bao gồm cả nhãn hiệu hàng hóa liên quan đến cạnh tranh không lành mạnh và độc quyền (cơ quan quản lý cạnh tranh) và nhiều loại cơ quan khác như cơ quan công an, quản lý thị trường.

Các cơ quan này tuy chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền khác nhau nhưng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ trong việc thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa.

Hệ thống các văn bản pháp luật thực thi bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật về nội dung và các văn bản quy phạm pháp luật về tố tụng. Hệ thống các văn bản này cũng bao gồm các văn bản quy định về thẩm quyền của các cơ quan, mối quan hệ giữa các cơ quan với nhau. Các văn bản pháp luật nội dung bao gồm các quy định của pháp luật dân sự, kinh tế, hình sự, hành chính và pháp luật quốc tế.

Để tiến hành bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa có hiệu quả, các nước trên thế giới sử dụng nhiều biện pháp để bảo hộ: bảo hộ bằng pháp luật hình sự, bảo hộ bằng pháp luật dân sự, bảo hộ bằng pháp luật hành chính, bảo hộ bằng biện pháp kiểm soát biên giới và bảo hộ bằng pháp luật cạnh tranh bao gồm pháp luật cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật kiểm soát độc quyền.

Để tiến hành bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa trên phạm vi quốc tế, các quốc gia tiến hành ký kết các điều ước quốc tế hoặc thừa nhận nguyên tắc có đi có lại. Đây là những cách thức quan trọng để khắc phục tính lãnh thổ của quyền SHTT nhằm ngăn chặn tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại.

Xem thêm: