Sự hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hiệu tại Việt Nam

Trong khi nhiều nước phương Tây đã đạt được những thành tựu to lớn bằng phương thức tư bản chủ nghĩa và biến xã hội của họ thành những xứ sở công nghệ với nền thương mại phát triển thì Việt Nam vẫn còn chìm dưới chế độ phong kiến với nền sản xuất chủ yếu mang tính chất tự cấp, tự túc. Nhãn hiệu hàng hóa và pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa do đó mà chưa có điều kiện ra đời.

Ngày 8/3/1949, Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà đã gia nhập hai điều ước quốc tế quan trọng có liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và Thỏa ước Madrid 1891 về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa. Hiện nay, chúng ta đang kế thừa sự tham gia này của chính quyền cũ bằng Tuyên bố kế thừa ngày 02/7/1976.

Giai đoạn 1954 – 1975, đất nước ta bị chia cắt thành hai miền: Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn còn nằm dưới ách thống trị và sự kìm kẹp của đế quốc Mỹ và nguỵ quyền Sài gòn. Do đó hệ thống pháp luật hai miền hoàn toàn khác nhau. ở Miền Bắc, ngày 3/1/1958, Thủ tướng Chính phủ đã ký Nghị định số 175-TTg có đề cập đến đăng ký nhãn hiệu thương phẩm. Còn ở miền Nam, một số đối tượng sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu hàng hóa được bảo hộ tại Luật số 13/57 ngày 1/8/1957 và Luật số 14/59 ngày 11/9/1959 về chống sản xuất hàng giả.

Từ năm 1975 đến năm 1981, việc bảo hộ các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu hàng hóa tạm thời bị gián đoạn.

Từ năm 1981 đến trước năm 1989, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp trong đó có nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, tất cả mới chỉ dừng lại ở các văn bản của Hội đồng Bộ trưởng, cụ thể về nhãn hiệu hàng hóa đã có Điều lệ về nhãn hiệu hàng hóa ban hành kèm theo Nghị định 197/HĐBT ngày 14/12/1982, được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định 84/HĐBT ngày 20/3/1990; Điều lệ mua bán lixăng ban hành kèm theo Nghị định 201/HĐBT ngày 28/12/1988.

Ngày 11/2/1989, Pháp lệnh bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được công bố đã đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa. Tiếp sau đó, các văn bản hướng dẫn liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa lần lượt ra đời như Thông tư số 437 ngày 19/3/1993 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn bổ sung về đăng ký nhãn hiệu hàng hóa; Thông tư số 163 ngày 15/4/1994 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn các quy định về phê duyệt và đăng ký hợp đồng lixăng.

Năm 1992, Hiến pháp thứ tư của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra đời đã ghi nhận việc Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa. Quy định này đánh dấu một bước mới trong nhận thức của chúng ta về sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.

Năm 1995, với sự ra đời của Bộ luật dân sự 1995 – một đạo luật có tầm quan trọng đặc biệt trong hệ thống pháp luật Việt Nam, hệ thống pháp luật nước ta về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đã có bước phát triển về chất. Quyền sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (trong đó có nhãn hiệu hàng hóa) được quy định tại Phần thứ sáu của bộ luật. Tiếp theo, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành các quy định pháp luật này. Liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa có thể kể ra một số văn bản tiêu biểu sau:

  • Nghị định 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
  • Nghị định 60/CP ngày 6/6/1997 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Dân sự về các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài.
  • Thông tư số 3055/TT-SHCN ngày 31/12/1996 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành các quy định về thủ tục xác lập quyền sở hữu công nghiệp và một số thủ tục khác trong Nghị định 63/CP của Chính phủ.
  • Nghị định 06/CP ngày 01/02/2001 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/CP quy định chi tiết về sở hữu công nghiệp.
  • Thông tư số 132/TT-BTC ngày 30/12/2004 của Bộ Tài Chính hướng dẫn chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí sở hữu công nghiệp.

Qua gần 10 năm thi hành, Bộ luật dân sự 1995 đã bộc lộ những điểm hạn chế, bất cập, trong đó có cả những điểm chưa phù khi quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập của đất nước, trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được của Bộ luật dân sự 1995, ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI đã thông qua Bộ luật dân sự 2005. Dựa trên quan điểm đảm bảo tính toàn diện và đầy đủ, tính khoa học trong các vấn đề sở hữu trí tuệ, khác với Bộ luật dân sự 1995, Bộ luật dân sự 2005 chỉ quy định những vấn đề chung mang tính nguyên tắc về quyền sở hữu trí tuệ (trong đó có nhãn hiệu hàng hóa).

Xuất phát từ nhận thức về tính chất đặc thù của quyền sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng, đồng thời để đảm bảo sự tương thích với pháp luật các nước trên thế giới và tiếp tục hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, trong đó có pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa, ngày 29/11/ 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Sở hữu trí tuệ. Đây là lần đầu tiên các quy phạm pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa cùng với các quy định pháp luật về các đối tượng khác về Sở hữu trí tuệ được ban hành thống nhất trong một văn bản chuyên biệt. Điều đó đánh dấu bước phát triển đáng kể của hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng ở nước ta.

Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, ngày 22/9/2006, Chính phủ đã ban hành một loạt Nghị định hướng dẫn thi hành liên quan đến nhãn hiệu hàng hóa như Nghị định 103/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật SHTT về sở hữu công nghiệp; Nghị định 105/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền SHTT và quản lý nhà nước về SHTT;

Bên cạnh các văn bản quy định về tiêu chuẩn bảo hộ quyền và trình tự, thủ tục xác lập quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, các quy định về thực thi quyền cũng lần lượt ra đời như:

  • Bộ luật hình sự năm 1999, đã sửa đổi, bổ sung;
  • Nghị định 12/1999/NĐ-CP năm 1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
  • Thông tư số 825/TT BKHCNMT ngày 3/5/2000 của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thi hành nghị định số 12/1999/CP/NĐ-CP ngày 6/3/1999 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực SHCN;
  • Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
  • Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002;
  • Pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính 1996, sửa đổi, bổ sung năm 1998;
  • Luật Hải quan năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2005;
  • Thông tư liên tịch số 129/TTLT-BTC-BKHCN ngày 29/12/2004 của Bộ Tài Chính và Bộ Khoa học Công nghệ hướng dẫn thi hành các biện pháp kiểm soát biên giới về SHCN đối với hàng hóa xuất, nhập khẩu; v.v…

Ngoài ra, còn rất nhiều văn bản khác liên quan đến vấn đề bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa như: Luật đầu tư 2005, Luật thương mại, Luật doanh nghiệp…

Song song với quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước, chúng ta cũng nhận thức một cách sâu sắc rằng vấn đề bảo hộ quốc tế nhãn hiệu hàng hóa có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Vì vậy, Việt Nam cũng đã tích cực tham gia và ký kết các điều ước quốc tế liên quan đến việc bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa. Cho đến nay, chúng ta đã là thành viên của các điều ước quốc tế sau:

  • Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền SHCN kể từ ngày 8/3/1949;
  • Thỏa ước Madrid 1891 kể từ ngày 8/3/1949;
  • Công ước Stockholm về thành lập Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) kể từ ngày 2/7/1976;
  • Hiệp định khung về Sở hữu trí tuệ của ASEAN ngày 15/12/1995;
  • Hiệp định giữa Việt Nam với Thuỵ Sỹ về bảo hộ SHTT và hợp tác trong lĩnh vực SHTT ngày 7/7/1999;
  • Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ ngày 13/7/2000;
  • Nghị định thư Madrid kể từ ngày 11/7/2006
  • Ngày 07/11/2006, Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của “đại gia đình thương mại” WTO, điều đó cũng đồng nghĩa với việc chúng ta gia nhập Hiệp định TRIPS – điều ước quốc tế đa phương toàn diện nhất về SHTT, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa.

Nói tóm lại, chúng ta có thể đưa ra một số nhận xét về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam về nhãn hiệu hàng hóa như sau:

  • Có thể nói, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp nói chung và nhãn hiệu hàng hóa nói riêng của nước ta là tương đối đầy đủ và ngày càng chi tiết hơn, hoàn thiện hơn so với các thời kỳ trước. Điều này có nguyên nhân từ sự vận động phát triển của các quan hệ xã hội liên quan đến bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa mà pháp luật điều chỉnh. Mặt khác, nó thể hiện sự phát triển nhận thức của xã hội ngày càng cao về vấn đề bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.
  • Trong bối cảnh hội nhập quốc tế là một nhu cầu nội sinh, một tất yếu khách quan, hệ thống pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa cũng có những bước phát triển đáng kể trong việc tiến tới tương thích hoá, hài hoà hoá với pháp luật các nước và các chuẩn mực bảo hộ quốc tế.
  • Các văn bản quy phạm pháp luật này đã góp phần tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho việc thực thi pháp luật bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tương đối hiệu quả, bảo vệ các chủ thể kinh doanh, bảo vệ người tiêu dùng và tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho nền kinh tế phát triển, góp phần thu hút đầu tư nước ngoài.
  • Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhãn hiệu hàng hóa vẫn còn tồn tại một số bất cập so với yêu cầu của thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa vốn phong phú, đa dạng và rất phức tạp. Một số quy định không khái quát được các chuẩn mực quốc tế được quy định trong các điều ước quốc tế. Các quy định về thực thi quyền SHTT nói chung, trong đó có nhãn hiệu hàng hóa là một minh chứng điển hình.

Trước yêu cầu đặt ra của tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, pháp luật về SHTT nói chung, nhãn hiệu hàng hóa nói riêng đang và sẽ tiếp tục được hoàn thiện.

Xem thêm: Sự hình thành và phát triển của pháp luật về nhãn hiệu tại Hoa Kỳ