Chủ sở hữu nhãn hiệu có những quyền gì?

Theo quy định tại Điều 21 Luật Sở hữu trí tuệ, chủ sở hữu nhãn hiệu là tổ chức, cá nhân được cơ quan có thẩm quyền cấp văn bằng bảo hộ nhãn hiệu hoặc có nhãn hiệu đã đăng ký quốc tế được cơ quan có thẩm quyền công nhận hoặc có nhãn hiệu nổi tiếng.

Nội dung quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa

Quyền sở hữu nhãn hiệu là một loại tài sản trí tuệ thuộc tài sản phi vật chất. Do đó, quyền năng chiếm hữu không mang ý nghĩa thực tiễn, không có ý nghĩa quyết định xác định quyền sở hữu. Tài sản nhãn hiệu được coi thuộc về người có quyền sở hữu nhờ sự tôn trọng các chuẩn mực xử sự trong cộng đồng người có tổ chức, các chuẩn mực mà pháp luật áp đặt cho người thứ ba.

Trong trường hợp quyền sở hữu đối với nhãn hiệu bị xâm hại thì chủ sở hữu không thể kiện đòi lại tài sản mà chỉ có thể khởi kiện, khiếu nại trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để bảo vệ các lợi ích của mình.

Các quyền năng quan trọng của chủ sở hữu nhãn hiệu là quyền sử dụngquyền định đoạt tài sản nhãn hiệu. Theo quy định tại Bộ luật dân sự 1995, chủ sở hữu nhãn hiệu hàng hóa có các quyền sau:

  • Độc quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa;
  • Chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa cho người khác;
  • Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa của mình phải chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại;
  • Thừa kế hoặc chuyển giao quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa.

Theo tinh thần của khoản 1 Điều 123 Luật SHTT 2005, chủ sở hữu nhãn hiệu có các quyền sau:

  • Sử dụng, cho phép người khác sử dụng nhãn hiệu;
  • Ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu;
  • Định đoạt nhãn hiệu.

Như vậy, có thể thấy, cách quy định tại Luật SHTT mang tính khái quát và đầy đủ hơn.

Quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hóa

Sẽ là mâu thuẫn khi áp đặt nghĩa vụ sử dụng nhãn hiệu mà không quy định quyền sử dụng của chủ nhãn hiệu. Cho nên, hầu hết pháp luật của các nước đều thừa nhận quyền sử dụng một cách tích cực của chủ sở hữu đối với việc thực hiện các hành vi như:

  • Gắn nhãn hiệu được bảo hộ lên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện kinh doanh, giấy tờ giao dịch trong hoạt động kinh doanh;
  • Lưu thông, chào bán, quảng cáo để bán, tàng trữ để bán hàng hóa mang nhãn hiệu được bảo hộ;
  • Nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu được bảo hộ.

Quyền cấm người khác xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa của mình

Quyền cấm người khác xâm phạm nhãn hiệu hàng hóa của chủ sở hữu nhãn hiệu được pháp luật thừa nhận nhằm bảo hộ quyền sở hữu của chủ nhãn hiệu đồng thời bảo vệ người tiêu dùng và xã hội nói chung, giúp người tiêu dùng không bị nhầm lẫn khi lựa chọn sản phẩm mà mình mong đợi. (Xem thêm: Tại sao phải bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa?)

Theo tinh thần của Điều 125 Luật SHTT, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền ngăn cấm người khác sử dụng nhãn hiệu. Tuy nhiên, chủ sở hữu nhãn hiệu không có quyền cấm người khác thực hiện các hành vi lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra thị trường nước ngoài.

Đồng thời, tại Điều 129 quy định các hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu thì bị coi là xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu.

Có thể nhận xét rằng, những quy định này là bước phát triển mới của Luật SHTT 2005 so với các quy định của Bộ luật dân sự 1995 và Nghị định 63/CP trước đây. Đồng thời, chúng cũng phù hợp với tinh thần của Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.

Quyền định đoạt nhãn hiệu

Chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu (Điều 138, 139, 140): là việc chủ sở hữu nhãn hiệu chuyển giao quyền sở hữu của mình cho tổ chức, cá nhân khác.

Việc chuyển nhượng quyền sở hữu nhãn hiệu phải được thực hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản.

Tuy nhiên, việc chuyển nhượng quyền đối với nhãn hiệu không được gây ra sự nhầm lẫn về đặc tính, nguồn gốc của hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu. Quyền đối với nhãn hiệu chỉ được chuyển nhượng cho tổ chức, cá nhân đáp ứng các điều kiện đối với người có quyền đăng ký nhãn hiệu đó.

Chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu (Điều 141, 142, 143, 144, Luật SHTT 2005): Chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu là việc chủ sở hữu nhãn hiệu cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng nhãn hiệu thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình.

Cũng giống như chuyển nhượng quyền sở hữu, việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu phải được thể hiện dưới hình thức hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng sử dụng nhãn hiệu). Để bảo vệ quyền của chủ sở hữu nhãn hiệu cũng như quyền lợi của người tiêu dùng và trật tự xã hội, pháp luật quy định một số hạn chế đối với việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu, đó là:

  • Quyền sử dụng nhãn hiệu tập thể không được chuyển giao cho tổ chức, cá nhân không phải là thành viên của chủ sở hữu nhãn hiệu tập thể đó.
  • Bên được chuyển quyền không được ký kết hợp đồng thứ cấp với bên thứ ba, trừ trường hợp được bên chuyển quyền cho phép.
  • Bên được chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu có nghĩa vụ ghi chỉ dẫn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa về việc hàng hóa đó được sản xuất theo hợp đồng sử dụng nhãn hiệu.
  • Thừa kế, kế thừa quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa.

Nhãn hiệu hàng hóa là một loại tài sản của chủ sở hữu nhãn hiệu. Do đó, chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền để lại thừa kế hoặc cho người khác kế thừa.

Trước đây, pháp luật Việt Nam chỉ quy định về vấn đề thừa kế quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa (Nghị định 63/CP). Luật SHTT 2005 đã bổ sung thêm quy định về vấn đề kế thừa quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa. Đây là sự bổ sung hợp lý nhằm đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn.