Khái niệm nhãn hiệu hàng hóa

Một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu mà các nhà lập pháp quan tâm khi quy định về bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa là vấn đề xác định cho được nhãn hiệu hàng hóa là gì, tức phải xác định cho được những đối tượng nào, dấu hiệu nào được coi là nhãn hiệu.

Định nghĩa của Hiệp định TRIPs

Khoản 1 Điều 15 Hiệp định TRIPS quy định:

Bất kỳ một dấu hiệu, hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào, có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp với hàng hóa hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác, đều có thể làm nhãn hiệu hàng hóa. Các dấu hiệu đó, đặc biệt là các từ, kể cả tên riêng, các chữ cái, chữ số, các yếu tố hình hoạ và tổ hợp các mầu sắc cũng như tổ hợp bất kỳ của các dấu hiệu đó, phải có khả năng được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa.

Như vậy, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa được quy định rất khái quát và mang tính quy chuẩn cao. Điều này thể hiện nhận thức đúng đắn của các nhà làm luật về tính phong phú, đa dạng của sự phát triển tư duy con người trong phát triển kinh tế nói chung và trong việc xây dựng nhãn hiệu hàng hóa nói riêng.

Pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều đi theo xu hướng chung đó khi đưa ra khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, mỗi nước có những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể khác nhau nên cách định nghĩa về nhãn hiệu hàng hóa cũng có những điểm khác nhau.

Định nghĩa theo Luật nhãn hiệu hàng hóa Mỹ

Nhãn hiệu hàng hóa bao gồm bất kỳ từ, tên gọi, biểu tượng, hay hình vẽ hoặc sự kết hợp giữa chúng (…) để xác định và phân biệt hàng hóa của người đó, bao gồm cả các hàng hóa đặc chủng, với những hàng hóa cùng loại được sản xuất hoặc được bán bởi những người khác để chỉ rõ nguồn gốc của hàng hóa thậm chí khi mà không xác định được nguồn gốc đó và không có nhãn hiệu hàng hóa nào có khả năng phân biệt hàng hóa của người nộp đơn với những hàng hóa của những người khác lại bị từ chối đăng ký vào sổ đăng ký.

Định nghĩa theo Pháp luật Việt Nam

Điều 785 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 quy định: “Nhãn hiệu hàng hóa là những dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất kinh doanh khác nhau. Nhãn hiệu hàng hóa có thể là từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc”.

Khái quát hơn, khoản 16 Điều 4 Luật SHTT Việt Nam năm 2005 định nghĩa: “Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau”.

Điểm chung của các cách tiếp cận này là sự thể hiện tính mở của quy định, theo đó bất kỳ dấu hiệu nào thoả mãn điều kiện phân biệt được hàng hóa/dịch vụ của một người với hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể khác đều được coi là nhãn hiệu hàng hóa.

Tính mở của khái niệm nhãn hiệu hàng hóa

Tính mở của khái niệm cho phép các loại dấu hiệu mới có thể được cấp bảo hộ. Xu hướng khái quát hoá như vậy hoàn toàn phù hợp với thực tiễn phát triển của nhãn hiệu hàng hóa. Bởi cùng với sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ, các dấu hiệu được dùng để phân biệt hàng hóa/dịch vụ của các nhà sản xuất khác nhau sẽ ngày càng phong phú, đa dạng. Việc liệt kê do vậy sẽ không tránh khỏi bị lạc hậu, lỗi thời.

Tính mở của nhãn hiệu hàng hóa
Pháp luật các nước cũng như các điều ước quốc tế đều không liệt kê một danh sách các dấu hiệu cố định mà chỉ đưa ra các loại dấu hiệu phổ biến, cơ bản

Mặc dù vậy, thực tiễn giải thích và áp dụng pháp luật ở các nước tương đối khác nhau. Dựa vào việc giải thích quy định mở tại Điều 2 Luật nhãn hiệu hàng hóa Hoa Kỳ, ngoài những dấu hiệu truyền thống như từ, tên gọi, biểu tượng, hình vẽ hay sự kết hợp các yếu tố đó thì các dấu hiệu khác đáp ứng được yêu cầu có khả năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ cùng loại của các chủ thể kinh doanh khác nhau như âm thanh hay mùi cũng được thừa nhận là nhãn hiệu hàng hóa và được đăng ký.

Trên thực tế, Hoa Kỳ là quốc gia đi tiên phong trong việc công nhận các dấu hiệu mới như âm thanh, mùi là nhãn hiệu hàng hóa khi chúng đáp ứng yêu cầu tính phân biệt. Chẳng hạn mùi thơm tươi mát của nước hoa Plumeria dùng cho mặt hàng chỉ may và sợi thêu đã được cấp đăng ký vào năm 1990.

Xem thêm: Điều kiện để bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa tại Hoa Kỳ

Các dấu hiệu có thể bảo hộ là nhãn hiệu

Ở Việt Nam, khái niệm nhãn hiệu hàng hóa tại Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995 cũng thể hiện tính mở vì ngay trong ngôn ngữ của điều luật bao gồm cụm từ “có thể là”, tức là ngoài từ ngữ, hình ảnh hoặc sự kết hợp các yếu tố đó thì nhãn hiệu hàng hóa còn có thể là những yếu tố khác.

Tuy nhiên, cách quy định như vậy chưa thể hiện tính khái quát cao, nhất là trong bối cảnh công việc giải thích pháp luật ở Việt Nam nhìn chung chưa được thực hiện tốt, Toà án không có thẩm quyền giải thích pháp luật thì tính mở của khái niệm nhãn hiệu hàng hóa đã bị giới hạn đáng kể.

Thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa ở Việt Nam cho thấy nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ chỉ bao gồm các dấu hiệu truyền thống là hình ảnh, từ ngữsự kết hợp giữa chúng. Các loại dấu hiệu khác dù thoả mãn điều kiện có tính phân biệt các hàng hóa/dịch vụ cùng loại như âm thanh, mùi, dấu hiệu được nhận biết qua xúc giác hoặc sự kết hợp giữa các dấu hiệu đó, thậm chí cả màu sắc cũng chưa được thừa nhận và bảo hộ tại Việt Nam.

Tính mở của nhãn hiệu hàng hóa
Thực tế pháp luật Việt Nam chưa chấp nhận những dấu hiệu mới (âm thanh, mùi vị) như ở một số nước phát triển

Được coi là cầu nối trong thương mại giữa hai nước, Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ đưa ra một khái niệm nhãn hiệu hàng hóa có tính xác định các loại dấu hiệu nhưng đã mở rộng hơn so với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995. Điều 6, Chương 2 của Hiệp định quy định:

Trong Hiệp định này, nhãn hiệu hàng hóa được cấu thành bởi dấu hiệu bất kỳ hoặc sự kết hợp bất kỳ của các dấu hiệu có khả năng phân biệt hàng hóa hoặc dịch vụ của một người với hàng hóa hoặc dịch vụ của người khác, bao gồm từ ngữ, tên người, hình, chữ cái, chữ số, tổ hợp màu sắc, các yếu tố hình hoặc hình dạng của bao bì hàng hóa.

Như vậy, các loại âm thanh, mùi vị cũng không được quy định trong Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ.

Khắc phục những hạn chế của Điều 785 Bộ luật dân sự năm 1995, Luật SHTT năm 2005 đã đưa ra khái niệm nhãn hiệu mang tính khái quát, bao trùm hơn. Theo đó, nhãn hiệu hàng hóa là các dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau.

Rõ ràng, có thể nói cách tiếp cận trong việc đưa ra khái niệm nhãn hiệu của pháp luật Việt Nam nhìn chung đã tiếp thu những kinh nghiệm của các nước. Điều này cho thấy chúng ta đã nhận thức rõ ràng yêu cầu khách quan của việc tương thích hoá, hài hòa hoá pháp luật của mình phục vụ cho công cuộc hội nhập với thế giới.

Mặc dù có những điểm khác nhau trong quy định pháp luật của mỗi nước song các khái niệm về nhãn hiệu hàng hóa đều thể hiện những điểm cơ bản sau đây:

Thứ nhất, về mục đích sử dụng là nhằm phân biệt hàng hóa của nhà sản xuất kinh doanh này với hàng hóa cạnh tranh khác. Chính mục đích sử dụng của nhãn hiệu đã quy định điều kiện để một dấu hiệu muốn trở thành nhãn hiệu hàng hóa là phải có tính phân biệt.

Thứ hai, quy định về các loại dấu hiệu có khả năng là nhãn hiệu hàng hóa.

Như đã đề cập ở trên, một dấu hiệu thoả mãn điều kiện có khả năng phân biệt hàng hóa/dịch vụ của một chủ thể kinh doanh này với hàng hóa/dịch vụ của một chủ thể kinh doanh khác và được sử dụng cho mục đích phân biệt là nhãn hiệu hàng hóa. Do đó, pháp luật các nước cũng như các điều ước quốc tế đều không liệt kê một danh sách các dấu hiệu cố định mà chỉ đưa ra các loại dấu hiệu phổ biến, cơ bản. Vì vậy các loại dấu hiệu có khả năng là nhãn hiệu hàng hóa trở nên rất đa dạng. Thực tiễn ghi nhận những loại dấu hiệu sau:

Từ ngữ

Là loại dấu hiệu phổ biến nhất và chiếm số lượng rất lớn. Loại dấu hiệu này bao gồm tên công ty, họ, tên, khẩu hiệu và bất kỳ từ ngữ nào được sáng tạo hay không.

Từ ngữ cũng không nhất thiết phải có nghĩa, chẳng hạn như SONY, KODAK, CANON, GOOGLE, SKYPE,…

Chữ cái và con số

Đây cũng là một loại dấu hiệu được sử dụng khá phổ biến trên thế giới. ở Việt Nam, không phải mọi chữ cái và con số đều được thừa nhận là nhãn hiệu hàng hóa. Các chữ cái đơn lẻ và không được cách điệu thì thường được coi là không có khả năng phân biệt và do vậy không được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hóa.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 74 Luật SHTT năm 2005, các chữ số, chữ cái thuộc các ngôn ngữ không thông dụng bị loại trừ. Tuy nhiên, nếu chúng đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu thì vẫn được chấp nhận.

Hình vẽ

Bao gồm các hình hoạ, các nét vẽ, biểu tượng hoặc hình hoạ hai chiều của hàng hóa hoặc bao bì. Pháp luật của nhiều nước trong đó có Việt Nam không chấp nhận cho đăng ký các hình và hình học đơn giản như hình chữ, hình vuông, hình tròn… vì chúng bị coi là không có khả năng phân biệt (khoản 2 Điều 74 Luật SHTT năm 2005).

Sự kết hợp của các yếu tố kể trên

Là những dấu hiệu được tạo ra từ sự kết hợp các dấu hiệu từ ngữ, chữ cái, con số, hình vẽ với nhau. Loại dấu hiệu này được sử dụng rất rộng rãi tại Việt Nam cũng như ở các nước khác.

Màu sắc

Loại dấu hiệu này bao gồm các từ ngữ, hình vẽ và bất kỳ sự kết hợp nào giữa chúng mà có mầu sắc hoặc sự tổ hợp của bản thân các màu sắc. Hiệp định TRIPS và Hiệp định thương mại Việt Nam Hoa Kỳ đều quy định tổ hợp màu sắc là một loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, Luật SHTT năm 2005 không thừa nhận dấu hiệu màu sắc có thể được đăng ký là nhãn hiệu hàng hóa mà chỉ xác định màu sắc là phương thức thể hiện của các loại dấu hiệu khác.

Dấu hiệu ba chiều (3D)

Là loại dấu hiệu hình khối, dạng điển hình nhất là hình dáng hàng hóa hoặc bao bì. Ngoài ra có thể kể đến một số nhãn hiệu ba chiều tiêu biểu như ngôi sao ba cánh nổi nằm trong vòng tròn của xe Mercedes, con sư tử đứng hai chân nổi của xe Peugeot, hình con ngựa bay đúc nguyên khối của xe Rolls-Royce.

Logo xe Mercedes
Logo nổi 3 chiều gắn trên xe Mercedes C300

Nhãn hiệu ba chiều là loại nhãn hiệu phức tạp vì khi thể hiện trên bản vẽ người ta chỉ mô tả được nó chứ đó không phải là bản thân nhãn hiệu. Do vậy, pháp luật các nước khi đã thừa nhận loại dấu hiệu này thường yêu cầu thêm điều kiện dấu hiệu ba chiều đó phải có khả năng mô tả được theo hình hoạ hai chiều. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự 1995 và các văn bản hướng dẫn về nhãn hiệu hàng hóa trước đây cũng như Luật SHTT năm 2005 đều không quy định rõ về điều kiện để một dấu hiệu ba chiều có thể được đăng ký làm nhãn hiệu.

Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 74 Luật SHTT, các hình và hình học đơn giản thì không có khả năng phân biệt. Từ đó có thể suy luận rằng các hình học đơn giản trong không gian ba chiều như hình lập phương, hình cầu, hình trụ, hình chóp… không được pháp luật Việt Nam thừa nhận là nhãn hiệu hàng hóa.

Các dấu hiệu âm thanh (thính giác)

Là loại dấu hiệu mới xuất hiện thời gian gần đây. Loại dấu hiệu này không thể nhìn thấy được nên không thể phân biệt bằng mắt. Về cơ bản, có hai loại dấu hiệu âm thanh được thừa nhận làm nhãn hiệu là các đoạn nhạc sáng tác và âm thanh mô phỏng từ tự nhiên (chẳng hạn, tiếng chim hót, tiếng gầm của mãnh thú, tiếng nước chảy).

Bản nhạc chuông Nokia
Nokia đã nộp đơn đăng ký bản nhạc chuông huyền thoại của mình tại Mỹ năm 1999

Chuỗi các dấu hiệu âm thanh có thể được đăng ký như các dấu hiệu hình nhưng cái được bảo hộ không phải là các tiết tấu nhạc thực sự mà là chuỗi các dấu hiệu âm thanh được đăng ký chống lại sự sử dụng các dấu hiệu tương tự.

Là quốc gia có nền kinh tế và khoa học, công nghệ phát triển, Hoa Kỳ đã đi tiên phong trong việc cấp đăng ký cho dấu hiệu âm thanh. Hiện nay, ở Hoa Kỳ để phục vụ cho thủ tục đăng ký, âm thanh phải được ghi vào băng cát-xét và nộp cho Cơ quan sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa Hoa Kỳ (USPTO).

Dấu hiệu mùi (khứu giác)

Đây cũng là loại dấu hiệu mới được thừa nhận làm nhãn hiệu hàng hóa. Tuy nhiên, nhãn hiệu mùi chưa có sự phát triển như nhãn hiệu âm thanh. Điều này xuất phát từ lý do mùi là loại dấu hiệu khó mô tả hơn, đặc biệt là mùi nhân tạo và người tiêu dùng cũng gặp nhiều trở ngại trong việc chỉ thông qua mùi mà nhận ra hàng hóa hay dịch vụ mà mình mong đợi. Hiện nay, chỉ có một số quốc gia phát triển trên thế giới, trong đó điển hình là Hoa Kỳ, cho đăng ký nhãn hiệu mùi trong thực tiễn.

Cách thức trình bày sản phẩm

Ở Hoa Kỳ, cách thức trình bày sản phẩm (cách thức trình bày hàng hóa để bán) cũng có thể là một nhãn hiệu. Theo GS.TS. Michael P. Ryan – Trường Đại học Tổng hợp Georgetown, cách trình bày hàng hóa xứng đáng được bảo hộ nếu chúng hoặc vốn có khả năng phân biệt ở sự kết hợp các yếu tố và ấn tượng chung mà cách trình bày hàng hóa đó tạo ra đối với người quan sát chúng, hoặc đạt được ý nghĩa thứ hai. Tuy nhiên, một cách trình bày hàng hóa đã trở nên thông thường đối với các đối thủ cạnh tranh trong một khu vực thị trường nhất định được coi là cách trình bày hàng hóa chung và do đó mất đi địa vị nhãn hiệu của chúng.

Đối với các loại dấu hiệu âm thanh, mùi vịcách thức trình bày sản phẩm, pháp luật Việt Nam chưa có quy định để bảo hộ và thực tiễn cũng không thừa nhận hai loại dấu hiệu này. Theo chúng tôi, điều này phản ánh đúng trình độ phát triển của khoa học, công nghệ cũng như nền kinh tế thị trường Việt Nam nói chung hiện nay. Tuy nhiên, pháp luật cần có tính dự liệu và trong tương lai, khi đã hội đủ các điều kiện cần thiết, chúng ta cần tiến tới bảo hộ cho cả các loại dấu hiệu này. Đây cũng là một trong các yêu cầu quan trọng khi chúng ta đang tích cực, chủ động hội nhập với nền kinh tế thế giới.

Ngoài ra, người ta còn dự liệu những dấu hiệu khác (chẳng hạn như các dấu hiệu có thể nhận biết qua xúc giác) cũng có thể có khả năng trở thành nhãn hiệu hàng hóa.

Với sự phát triển của khoa học, công nghệ, với khả năng sáng tạo bất tận của của con người và với hầu hết các hệ thống pháp luật có tính mở như hiện nay thì việc xuất hiện thêm các loại dấu hiệu mới có khả năng được đăng ký làm nhãn hiệu hàng hóa luôn được tính tới và hoàn toàn có thể xảy ra.

Xem thêm: