Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam

Các điều kiện bảo hộ nhãn hiệu hàng hóa theo quy định của pháp luật Việt Nam cơ bản cũng có nhiều điểm tương tự như pháp luật của Mỹ và các nước khác trên thế giới.

1. Điều kiện chung đối với nhãn hiệu được bảo hộ

Theo quy định tại Điều 72, Luật SHTT, nhãn hiệu được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:

  • Là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều mầu sắc
  • Có khả năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của chủ sở hữu nhãn hiệu với hàng hóa, dịch vụ của chủ thể khác

Như vậy, khoản 1 của điều luật này đã giới hạn phạm vi các dấu hiệu có thể được bảo hộ. Nếu như khái niệm nhãn hiệu tại Điều 4 mang tính mở thì tại quy định này, các dấu hiệu có khả năng được bảo hộ không mấy thay đổi so với quy định tại Điều 785 Bộ luật dân sự 1995 và các loại dấu hiệu chữ số, tổ hợp màu sắc như trong quy định của Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ vẫn không được thừa nhận.

Hơn nữa, ngoài tính phân biệt, yêu cầu không thể thiếu được đối với nhãn hiệu là không trái với trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Như đã phân tích ở phần trên, đây là những tiêu chuẩn chung được ghi nhận trong các điều ước quốc tế cũng như pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới. Do đó, dù vấn đề này đã được quy định cụ thể tại Điều 73, song sẽ là đầy đủ hơn và hợp lý hơn nếu các nhà lập pháp đề cập đến khía cạnh đó bằng một quy định có tính khái quát ngay tại điều luật này.

2. Khả năng phân biệt của nhãn hiệu

Pháp luật Việt Nam không chia thành các loại nhãn hiệu theo khả năng phân biệt của chúng như ở Hoa Kỳ mà đưa ra định nghĩa cụ thể về khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Theo tinh thần của Điều 74 Luật SHTT, nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt nếu được tạo thành từ một hoặc một số yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ hoặc từ nhiều yếu tố kết hợp thành một tổng thể dễ nhận biết, dễ ghi nhớ và không phải là các dấu hiệu bị loại trừ. Các dấu hiệu bị loài trừ bao gồm:

  1. Hình và hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu;
  2. Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hóa, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến;
  3. Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
  4. Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;
  5. Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hóa, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận;
  6. Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
  7. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
  8. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng trong thời hạn năm năm liên tục mà không có lý do chính đáng;
  9. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hóa, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
  10. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ;
  11. Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hóa;
  12. Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
  13. Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.

Tóm lại, các quy định về khả năng phân biệt của nhãn hiệu trong Luật SHTT khá chi tiết, đầy đủ và đặc biệt là cũng như pháp luật Hoa Kỳ, các nhà lập pháp Việt Nam đã ghi nhận cả trường hợp khả năng phân biệt của nhãn hiệu có được qua quá trình sử dụng.

3. Dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu

Tại Điều 73 Luật SHTT quy định các dấu hiệu không được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu bao gồm:

  • Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với hình quốc kỳ, quốc huy của các nước;
  • Dấu hiệu trùng hoặc tương tự tới mức gây nhầm lẫn với biểu tượng, cờ, huy hiệu, tên viết tắt, tên đầy đủ của cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, của Việt Nam và tổ chức quốc tế nếu không được cơ quan, tổ chức đó cho phép;
  • Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với tên thật, biệt hiệu, bút danh, hình ảnh của lãnh tụ, anh hùng dân tộc, danh nhân Việt Nam, của nước ngoài;
  • Dấu hiệu làm hiểu sai lệch, gây nhầm lẫn hoặc có tính chất lừa dối người tiêu dùng về nguồn gốc xuất xứ, tính năng, công dụng, chất lượng, giá trị hoặc các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ;…

Nói tóm lại, mặc dù cách thức quy định có thể khác nhau song về cơ bản pháp luật Hoa Kỳ và pháp luật Việt Nam (cũng như pháp luật của nhiều nước khác trên thế giới) đều có những điểm đồng quy khi quy định về các điều kiện để một dấu hiệu được bảo hộ làm nhãn hiệu hàng hóa. Những tiêu chuẩn này vừa phản ánh bản chất, chức năng của nhãn hiệu hàng hóa, vừa nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi của các chủ thể có liên quan, quyền lợi của người tiêu dùng và bảo vệ trật tự chung trong xã hội.

Xem thêm: